Bấy
lâu nay người ta chỉ biết đến gốm Bát Tràng, Quảng Ninh, Thổ Hà… kể cả
những nhà nghiên cứu và giảng dạy về gốm sứ. Bởi lẽ họ chưa thấy có
một trung tâm gốm nào thời Lê, nên khi thấy sản phẩm gốm hoa lam, gốm
tam thái (3 màu – thực là 5 màu) thì nghĩ ngay là của Bát Tràng.
Gốm
Chu Đậu là sự kế thừa của gốm Vạn yên (Kiếp Bạc) thế kỷ XIII, gốm Lý –
Trần về lớp men ngọc và tạo khắc hoa văn chìm nổi, kiểu dáng thanh
thoát. Bởi vậy gốm Chu Đậu thời đó đã đạt được 4 tiêu chuẩn: Mỏng như
giấy, trong như ngọc, trắng như ngà, kêu như chuông. Một điều nữa là
gốm Chu Đậu đã thể hiện được tâm hồn Việt qua hoa văn trang trí gắn với
thiên nhiên và cuộc sống của cư dân vùng châu thổ sông Hồng như cảnh
mục đồng chăn trâu, cô gái lái đò, người đội nón, mặc áo tứ thân, kết
tóc đuôi sam, những mái nhà tranh ven sông, hoa sen dây, hoa cúc quấn,
cỏ cây chim cá… Giữa các sản phẩm thường có chữ Phúc, Chính, Sĩ, Hoa,
Trung, Kim, Ngọc, Tàm, Quỳ, Trù…, có thể là tên hiệu của các chủ lò.
Phương pháp chế tạo cũng đạt trình độ cao, đó là chuốt, tạo dáng trên
bàn xoay, ngắt sản phẩm thành nhiều công đoạn rồi lắp ghép lại và gia
công. Xương gốm phần lớn có màu xám nhạt, cứng rắn, có loại trắng đục,
trắng trong. Phương pháp trang trí rất đa dạng, phóng khoáng, trữ tình,
hài hòa, tinh xảo như vẽ, khắc, họa, đắp… sản phẩm được phủ và vẽ chất
liệu men trắng hoa lam, men ngọc, men màu tam thái hoặc rạn đục…
Giá trị của gốm Chu Đậu, sau khi được tìm thấy ở Cù Lao Chàm, đã làm sửng sốt trong giới học giả và mọi người. Tờ Việt Mercury số ra tháng 6/2000 đã đăng lời bà Dessa Goddard – Giám đốc ngành nghệ thuật Á Châu của nhà bán đấu giá Butterfields tại San Francisco: “Phát hiện này đang trả lại cho Việt Nam một chương của di sản nghệ thuật mà người ta từng nghĩ là đã hoàn toàn biến mất”.
0 nhận xét:
Post a Comment